Lịch sử hoạt động USS Alaska (CB-1)

USS Alaska được hạ thủy vào ngày 15 tháng 8 năm 1943.

Sau khi được trang bị hoàn tất tại Xưởng hải quân Philadelphia, Alaska di chuyển dọc theo sông Delaware vào ngày 6 tháng 8 năm 1944 hướng đến Hampton Roads, được hộ tống bởi các tàu khu trục SimpsonBroome. Sau đó nó tiến hành một chuyến chạy thử máy "tích cực", bắt đầu từ vịnh Chesapeake di chuyển đến vịnh Paria ngoài khơi TrinidadTây Ấn thuộc Anh, lần này được hộ tống bởi các tàu khu trục BainbridgeDecatur. Sau tất cả các thử nghiệm trên, nó hướng đến Xưởng hải quân Philadelphia ngang qua Annapolis, Maryland và Norfolk để thực hiện các hiệu chỉnh và thay đổi cho hệ thống kiểm soát hỏa lực, trang bị bốn bộ hướng dẫn hỏa lực Mk. 57 cho dàn pháo 127 mm (5 inch).[1]

Alaska khởi hành từ Philadelphia vào ngày 12 tháng 11 năm 1944 hướng đến khu vực Caribbe cùng với tàu khu trục Thomas E. Fraser, và sau hai tuần chạy thử máy để tiêu chuẩn hóa ngoài khơi vịnh Guantanamo tại Cuba, nó lên đường hướng sang Thái Bình Dương vào ngày 2 tháng 12. Nó hoàn tất chuyến đi vượt kênh đào Panama ngày 4 tháng 12 và đến San Diego ngày 12 tháng 12. Từ đó, chiếc "tàu tuần dương lớn" thực hành bắn pháo bờ biển và tác xạ phòng không tại khu vực ngoài khơi San Diego.[1]

Tây Thái Bình Dương

Ngày 8 tháng 1 năm 1945, Alaska khởi hành đi Hawaii, đến Trân Châu Cảng vào ngày 13 tháng 1, nơi mà vào ngày 27 tháng 1 quyền chỉ huy con tàu được Đại tá Kenneth H. Noble thay thế cho Thuyền trưởng Fischler, vốn được thăng lên Chuẩn Đô đốc. Trong những ngày tiếp theo sau, Alaska tiến hành thêm các cuộc huấn luyện trước khi lên đường như một đơn vị của Đội Đặc nhiệm 12.2 hướng sang khu vực Tây Thái Bình Dương vào ngày 29 tháng 1. Nó đến Ulithi, nơi thả neo của hạm đội thuộc quần đảo Caroline, vào ngày 6 tháng 2, rồi sau đó gia nhập Đội Đặc nhiệm 58.5, một đơn vị thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 58 "nổi tiếng", tức lực lượng các tàu sân bay nhanh.[1]

Alaska trong chuyến đi chạy thử máy vào năm 1944

Alaska lên đường hướng đến các đảo chính quốc Nhật Bản trong thành phần của Đội Đặc nhiệm TG 58.5 vào ngày 10 tháng 2 năm 1945. Nó được giao nhiệm vụ bảo vệ các tàu sân bay Saratoga và Enterprise khi chúng thực hiện các cuộc không kích ban đêm vào Tokyo và các sân bay chung quanh nó. Lực lượng Đặc nhiệm 58, được che giấu bởi thời tiết xấu, tiếp cận các đảo chính quốc Nhật từ phía Đông quần đảo Mariana. Sử dụng tình báo vô tuyến cùng với các tàu ngầm được bố trí, các máy bay tuần tra tầm xa của Không đoàn Hạm đội 1, và những chiếc máy bay Boeing B-29 Superfortress của Không lực Lục quân Hoa Kỳ hoạt động như những đơn vị trinh sát tiền trạm, lực lượng đặc nhiệm tiếp cận được mục tiêu mà không bị phát hiện; và nhờ kỹ năng bay tầm thấp đã ngăn trở sự phản công của quân Nhật. Được phân về Đội Đặc nhiệm 58.4 không lâu sau đó, Alaska hỗ trợ các hoạt động tại Iwo Jima, và cũng như trước đây, không máy bay đối phương nào bén mảng đến gần đội hình các tàu sân bay mà chiếc tàu tuần dương lớn tháp tùng. Nó bảo vệ các tàu sân bay trong 19 ngày trước khi rút lui về Ulithi để bổ sung tiếp liệu và thực hiện các sửa chữa nhỏ.[1]

Với quyết tâm chiếm đóng Okinawa vào đầu tháng 4 năm 1945, các nhà chiến lược dự đoán là Nhật sẽ kháng cự quyết liệt với mọi sức mạnh không quân và hải quân còn có được. Để phá hủy càng nhiều máy bay càng tốt, và do đó giảm thiểu khả năng hải quân Mỹ bị máy bay Nhật tấn công - lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh được lệnh tấn công các sân bay tại Kyūshū, Shikoku và phía Đông Honshū. Vẫn còn trong thành phần của Đội Đặc nhiệm 58.4 vốn được hình thành chung quanh các tàu sân bay Yorktown, Intrepid, IndependenceLangley, Alaska một lần nữa đảm trách nhiệm vụ bảo vệ các tàu sân bay. Vẫn như trước đây, vai trò chính của nó là phòng thủ chống lại mọi cuộc tấn công từ trên không hay trên mặt biển.[1]

Theo kế hoạch tác chiến được vạch ra, Lực lượng Đặc nhiệm 58 khởi hành từ Ulithi vào ngày 14 tháng 3 hướng lên phía Tây Bắc từ quần đảo Caroline. Được tiếp nhiên liệu trên biển trong ngày 16 tháng 3, lực lượng này đi đến một điểm ở về phía Đông Nam Kyūshū vào sáng sớm ngày 18 tháng 3. Trong ngày hôm đó, máy bay của Đội Đặc nhiệm 58.4 đã càn quét qua các sân bay Nhật Bản tại Usa, ŌitaSaeki, hợp cùng lực lượng của các đội đặc nhiệm 58.1, 58.2 và 58.3 trong việc tiêu diệt 107 máy bay đối phương trên mặt đất và bắn rơi 77 trong tổng số 142 máy bay tham gia không chiến bên trên khu vực mục tiêu.[1]

Alaska đối đầu cùng đối phương lần đầu tiên vào ngày 18 tháng 3 khi quân Nhật mở cuộc không kích nhắm vào lực lượng đặc nhiệm. Bản thân nó đã bắn rơi hai máy bay đối phương: một chiếc máy bay cảm tử kamikaze Yokosuka P1Y "Frances" đang trên đường lao đến Intrepid, cùng một chiếc Yokosuka D4Y "Judy" bị bắn trúng vào khoảng 13 giờ 15 phút.[1]

Bảo vệ Franklin

Nhật Bản dốc toàn lực ra tấn công vào ngày 19 tháng 3, và chúng bắt gặp Đội Đặc nhiệm 58.2 ở cách 32 km (20 dặm) về phía Bắc so với các đội khác của Lực lượng đặc nhiệm 58. Vào khoảng 07 giờ 08 phút, Franklin bị đánh trúng hai quả bom; và Wasp cũng là nạn nhân của những quả bom Nhật. Bên trên Alaska, mọi người đang chứng kiến diễn biến của trận đánh đều ghi nhận được ánh chớp, rồi nối tiếp bởi những cuộn khói dày đặc từ từ bốc lên, chứng tỏ chiếc tàu sân bay đã bị đánh trúng. Ít lâu sau, liên lạc vô tuyến xác nhận việc Franklin là nạn nhân của đợt tấn công của Nhật.[1]

Đơn vị Đặc nhiệm 58.2.9, một lực lượng giải cứu, được nhanh chóng thành lập để hộ tống chiếc Franklin bị hư hại. Bao gồm Alaska, chiếc Guam chị em với nó, tàu tuần dương hạng nặng Pittsburgh, tàu tuần dương hạng nhẹ Santa Fe và ba đội tàu khu trục, Đơn vị Đặc nhiệm 58.2.9 được lệnh tiến đến Guam với tốc độ nhanh nhất có thể.[1]

Không có lực lượng Nhật nào được phát hiện trên đường đi cho đến xế trưa, khi một số máy bay xuất hiện ở chân trời. Cho dù đa số là những chiếc thủy phi cơ PB4Y không phát ra tín hiệu phân biệt bạn-thù, một chiếc "Judy" đã ẩn náu giữa chúng. Một dàn "hỏa lực chào" được dựng nên để phòng thủ đối với chiếc "Judy" nhưng nó thoát đi mà không bị thiệt hại, còn quả bom nó phóng ra trượt khỏi Franklin. Loạt đạn pháo 127 mm (5 inch) cuối cùng của Alaska trong trận này đã gây bỏng nhẹ cho một khẩu đội 40 mm kế cận; là những thương vong duy nhất mà chiếc tàu tuần dương lớn phải chịu trong suốt quảng đời phục vụ của nó.[1]

Sáng hôm sau, Alaska đảm nhiệm vai trò chỉ đạo tuần tra chiến đấu trên không, và kiểm soát ba tốp máy bay tiêm kích xuất phát từ tàu sân bay Hancock. Trong khi các tốp này còn đang ở vị trí trực chiến chờ đến lúc được thay phiên, radar của Alaska bắt được tín hiệu một chiếc máy bay đơn độc ở cách 56 km (35 dặm) lúc 11 giờ 43 phút. Đến 11 giờ 49 phút, các máy bay tiêm kích bắn rơi một chiếc Kawasaki Ki-45 "Nick" ở khoảng cách 31 km (19 dặm). Đến ngày 22 tháng 3, phần việc của Alaska trong cuộc hộ tống chiếc Franklin bị hư hại đã hoàn tất, và nó lại gia nhập Đội Đặc nhiệm 58.4, được tiếp nhiên liệu cùng ngày hôm đó từ tàu chở dầu Chicopee.[1]

Okinawa

Trong vài ngày tiếp theo sau, các cuộc không kích xuống Okinawa vẫn tiếp tục được tiến hành, chuẩn bị cho cuộc đổ bộ đã được ấn định trước vào ngày Chủ nhật Phục Sinh, 1 tháng 4 năm 1945. Alaska tiếp tục hỗ trợ các tàu sân bay tung ra các cuộc không kích cho đến khi được tách ra vào ngày 27 tháng 3 để thực hiện nhiệm vụ bắn pháo xuống Minami Daito Shimo, một hòn đảo tí hon ở cách 257 km (160 dặm) về phía Đông Okinawa. Đơn vị Đặc nhiệm 58.4.9 của nó còn bao gồm Guam, các tàu tuần dương hạng nhẹ San DiegoFlint cùng Hải đội Khu trục 47. Nhận được lệnh tiến hành bắn phá trên đường đi đến khu vực tiếp nhiên liệu, Alaska và Guam cùng các tàu hộ tống di chuyển về phía Tây hòn đảo theo hướng Bắc-Nam; và từ 22 giờ 45 phút ngày 27 tháng 3 đến 00 giờ 30 phút ngày 28 tháng 3, dàn pháo chính của Alaska đã dội 45 quả đạn pháo công phá lên bờ, trong khi các khẩu đội 127 mm (5 inch) nả thêm 352 quả đạn khác. Không có bất kỳ sự kháng cự nào từ trên bờ, và quan sát viên trên Alaska ghi nhận "các đám cháy tương ứng" trên đảo.

Tái gia nhập Đội Đặc nhiệm 58.4 tại điểm hẹn tiếp nhiên liệu, Alaska cho chuyển những người bị thương từ chiếc Franklin sang tàu chở dầu Tomahawk trong khi đang được tiếp nhiên liệu từ nó. Sau đó nó tiếp tục nhiệm vụ hộ tống các tàu sân bay nhanh khi chúng thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho việc tập trung lực lượng và đổ bộ lên Okinawa, sẵn sàng đánh trả các cuộc không kích của đối phương. Cuộc đổ bộ được tiến hành như dự tính vào ngày 1 tháng 4, và các hoạt động của nó trong những ngày tiếp theo là nhằm hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ. Ngày 7 tháng 4, một lực lượng tàu nổi Nhật Bản đã di chuyển qua biển Đông Trung Quốc hướng về phía Okinawa để ngăn chặn cuộc đổ bộ; chúng bị đánh bại bởi một cuộc không kích lớn lao từ các tàu sân bay bay nhanh thuộc lực lượng đặc nhiệm dưới quyền Phó Đô đốc Marc Mitscher, vốn đã đánh chìm chiếc thiết giáp hạm khổng lồ Yamato, một tàu tuần dương và bốn tàu khu trục.

Hoạt động ngoài khơi Okinawa và Kyūshū, Alaska sử dụng hỏa lực hùng hậu của mình bảo vệ các tàu sân bay nhanh trong khi chúng hàng ngày tung ra các đợt máy bay F6F HellcatF4U Corsair nhắm vào các sân bay đối phương, các tàu bè và căn cứ trên bờ. Trong đêm 11 tháng 4, chiếc tàu tuần dương lớn đã trợ giúp vào việc bắn rơi một máy bay Nhật Bản; bản thân nó cũng bắn rơi một chiếc khác bởi chính mình, được cho có thể là một kiểu tên lửa cảm tử có người lái "Ohka" trong đêm 11-12 tháng 4.

Bốn ngày sau đó, vào ngày 16 tháng 4, hỏa lực phòng không của Alaska bắn rơi một chiếc có thể là một "Judy" và hai chiếc Mitsubishi A6M Zero, và con tàu cũng đã giúp đỡ vào việc bắn rơi ba máy bay đối phương khác. Tuy nhiên, cùng ngày hôm đó, một máy bay đối phương đã tìm cách đi qua được hàng rào phòng thủ của Alaska để đâm vào Intrepid. Dù sao, đêm hôm đó, hỏa lực phòng không của chiếc tàu tuần dương đã đóng vai trò chính trong việc đánh đuổi một kẻ rình mò đơn độc tìm cách xâm nhập đội hình. Trong đêm 21-22 tháng 4, một lần nữa Alaska ngăn chặn một máy bay đối phương tìm cách tấn công đội đặc nhiệm bằng hỏa lực phòng không. Vào đêm 29-30 tháng 4, vào cuối giai đoạn hoạt động ngoài biển cùng các tàu sân bay nhanh, hai lần Alaska đã đánh đuổi các toán máy bay tấn công Nhật Bản.

Các hoạt động cuối cùng trong chiến tranh

Alaska thả neo tại Ulithi vào ngày 14 tháng 5, kết thúc một đợt hoạt động căng thẳng kéo dài gần hai tháng. Mười ngày sau đó, sau khi được nghỉ ngơi và tiếp liệu, chiếc tàu tuần dương trở thành một bộ phận của Đệ Tam hạm đội, thuộc Đội Đặc nhiệm 38.4 cùng với những thành viên mới gia nhập: thiết giáp hạm Iowa và tàu sân bay Ticonderoga. Trong hai tuần lễ tiếp theo, một lần nữa Alaska lại hộ tống một bộ phận của lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh, tiến hành cuộc bắn pháo bờ biển lần thứ hai của nó, khi vào ngày 9 tháng 6, nó cùng với Guam dội pháo xuống đảo Okino Daito Shima còn do Nhật Bản chiếm giữ, về phía Nam Minami Daito Shimo, vốn đã được hai chiếc tàu sân bay lớn ghé thăm vào cuối tháng 3, và được ghi nhận có khác cơ sở radar của đối phương được bố trí tại đây.

Sau đó, đội đặc nhiệm di chuyển về phía Tây Nam hướng đến vịnh San PedroLeyte, đến nơi vào trưa ngày 13 tháng 6 năm 1945. Nó trải qua một tháng trong vịnh Leyte sau đó; một giai đoạn "nghỉ ngơi, tiếp liệu và bảo trì" trước khi Alaska lại lên đường vào ngày 13 tháng 7, lần này là trong thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm 95 vừa mới được thành lập. Đi đến vịnh Buckner tại Okinawa vào ngày 16 tháng 7, Lực lượng Đặc nhiệm 95 được tiếp nhiên liệu tại đây và lên đường vào ngày hôm sau, hướng đến bờ biển Trung Quốc rồi sau đó đột nhập vào biển Đông Trung Quốc, khu vực từng là nơi săn mồi của máy bay và tàu ngầm Mỹ, nhưng chưa từng có mặt một lực lượng tàu nổi Đồng Minh nào kể từ sau trận Trân Châu Cảng.

Mặc dù những người vạch kế hoạch cho cuộc càn quét dự đoán có những sự kháng cự, chúng đã không xảy ra. Alaska, Guam và các tàu hộ tống khống chế cả khu vực, chỉ bắt gặp các thuyền đánh cá Trung Quốc. Máy bay đối phương nhiều lần được tung ra chống lại lực lượng đặc nhiệm đều là mục tiêu của lực lượng tuần tra chiến đấu trên không. Hoạt động từ vịnh Buckner, Alaska tham gia ba đợt càn quét tại vùng biển này, và đã chứng kiến hiệu quả của việc phong tỏa cấm vận Nhật Bản: không hề thấy bất cứ tàu bè Nhật Bản nào trong suốt chiến dịch. Nhận xét của chỉ huy trưởng chiếc Guam, Đại tá Hải quân Leland P. Lovette: "Chúng tôi chuẩn bị đối phó với một tổ ong vò vẽ, và kết thúc ở một cánh đồng toàn bướm; nhưng chúng tôi đã chứng tỏ được chính mình, và biển Đông Trung Quốc thuộc về chúng tôi, có thể làm bất cứ điều gì theo ý mình."

Vịnh Buckner tỏ ra có nhiều thách thức hơn so với các đợt càn quét. Ngay cả những ngày sau cùng của cuộc chiến tranh vẫn còn có những yếu tố nguy hiểm: vào ngày 12 tháng 8 một máy bay ném bom-ngư lôi Nhật Bản đã đánh trúng thiết giáp hạm Pennsylvania, cạnh nơi thả neo của Alaska. Trong những ngày tiếp theo, những chuyến ra đi vào ban đêm được thực hiện để tránh những kẻ tự sát cuối cùng, cho đến khi chiến tranh chấm dứt vào giữa tháng 8.

Hoạt động sau chiến tranh

Tuy nhiên, vẫn còn những việc cần làm. Ngày 30 tháng 8, Alaska khởi hành từ Okinawa trong thành phần lực lượng chiếm đóng của Đệ Thất hạm đội, và sau khi tham gia vào việc "biểu dương lực lượng" tại Hoàng Hảivịnh Chihli, đã đi đến Jinsen (ngày nay là Inchon) tại Triều Tiên vào ngày 8 tháng 9 năm 1945. Alaska đã hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng chiếm đóng Lục quân lên Jinsen, và đã ở lại cảng này cho đến ngày 26 tháng 9, khi nó lên đường đi Thanh Đảo, Trung Quốc, đến nơi vào ngày hôm sau. Nó chuyển sang thả neo bên ngoài lối vào cảng vào ngày 11 tháng 10 để hỗ trợ cho việc đổ bộ Sư đoàn 6 Thủy quân Lục chiến chiến đóng hải cảng trọng yếu phía Bắc Trung Quốc này, và tiếp tục ở lại Thanh Đảo cho đến ngày 13 tháng 11, khi nó lên đường quay lại Jinsen, nhận lên tàu các cựu chiến binh quay trở về nhà như một phần của Chiến dịch Magic Carpet. Lên đường hướng về Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 11, Alaska dừng một chặng ngắn tại Trân Châu Cảng trước khi tiếp tục đi đến San Francisco.

Tiếp tục hướng đến kênh đào Panama, và hoàn tất việc vượt qua kênh đào vào ngày 13 tháng 12 năm 1945, Alaska đi đến Xưởng hải quân Boston vào ngày 18 tháng 12. Tại đây nó được cho chuẩn bị để được ngừng hoạt động. Rời Boston ngày 1 tháng 2 năm 1946, nó được chỉ định chỗ neo đậu thường trực tại Bayonne, New Jersey, và đến nơi ngày hôm sau. Được đưa về lực lượng dự bị tại Bayonne vào ngày 13 tháng 8 năm 1946, Alaska cuối cùng được cho ngừng hoạt động vào ngày 17 tháng 2 năm 1947.

Chiếc tàu tuần dương lớn không bao giờ quay trở lại hoạt động thường trực. Tên của nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1960, Alaska được bán vào ngày 30 tháng 6 năm 1960 cho chi nhánh Lipsett Division của Luria Brothers tại New York để được tháo dỡ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: USS Alaska (CB-1) http://www.coatneyhistory.com/Alaska.htm http://books.google.com/books?id=HT1UA3r7RHMC http://books.google.com/books?id=TpDlFI453RcC http://books.google.com/books?id=bJBMBvyQ83EC&pg=P... http://books.google.com/books?id=j737z38fCBEC&pgis... http://books.google.com/books?id=oFv4gqBwF1UC&pg=P... http://books.google.com/books?id=uFtnIh7xdgIC&pg=P... http://books.google.com/books?id=yfNkP1-uXLYC http://books.google.com/books?id=yfNkP1-uXLYC&pg=P... http://www.ussalaskacb-1.com